Thế kỷ 21 được gọi là “Thế kỷ của đại
dương”, bảo vệ quyền lợi biển của Trung Quốc là lời kêu gọi của thời đại
đối với hải quân.
Theo Tin moi 24h
Hàng hải, hải quân và lợi ích quốc gia
Tàu sân bay phòng không được nghiên cứu
chế tạo nhằm đáp ứng nhiệm vụ tác chiến trong thời gian ngắn, không phù
hợp với qui luật khách quan xây dựng của hải quân. Câu nói “Hải quân trăm năm”
là nói đến việc xây dựng hải quân cần có sự đầu tư dài hạn và liên tục
của quốc gia. Nếu như xảy ra mối đe doạ thời kỳ gần, giành được lượng
lớn ngân sách tạm thời, xây dựng hạm đội thực hiện một nhiệm vụ đặc thù
nào đó, thì chỉ thấy được cái trước mắt mà không nhìn thấy cái lâu dài.
Giả tưởng 20 năm sau, cần giải quyết hoà
bình một nhiệm vụ đặc biệt (như vấn đề Đài Loan, Biển Đông), thuyết
không dùng tàu sân bay, quan điểm tàu sân bay là thứ hàng xa xỉ phẩm tất
sẽ được ủng hộ. Quan điểm này thịnh hành sẽ gây bất lợi cho việc phát
triển hải quân. Như chuyện các nhà lãnh đạo Liên Xô quá nóng vội khi
quyết định phát triển hải quân nên đã ảnh hưởng đến xây dựng hải quân.
Hải quân Trung Quốc hiển nhiên đã ý thức
được vấn đề này, liều thuốc chỉ có một: cân bằng chặt chẽ giữa phát
triển hải quân và lợi ích quốc gia. Cùng với việc mức độ phụ thuộc của
nền kinh tế Trung Quốc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài ngày càng lớn,
an ninh tuyến đường vận tải biển Trung Quốc, bảo hộ đầu tư nước ngoài ở
Trung Quốc, an toàn cho công dân đã trở thành một trong những lợi ích
cốt lõi quyết định đến việc Trung Quốc liệu có hướng tới phồn vinh giàu
có hay không.
Thế kỷ 21 được gọi là “Thế kỷ của đại dương”,
bảo vệ quyền lợi biển của Trung Quốc là lời kêu gọi của thời đại đối
với hải quân. Tác giả cho rằng, đó mới là bối cảnh lớn để chính thức
khởi động bức màn phát triển tàu sân bay Trung Quốc.
“Sách trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2011” chỉ rõ: “Hải
quân căn cứ vào nhu cầu chiến lược phòng ngự biển gần, chú trọng nâng
cao trình độ hiện đại hoá lực lượng tác chiến hải quân, tăng cường năng
lực phản kích và răn đe chiến lược, phát triển năng lực hợp tác biển xa
và ứng phó với các mối đe doạ phi truyền thống.”
Nhằm thực hiện sứ mệnh thần thánh này,
chúng ta nhìn thấy trạng thái bình thường hoá bảo vệ đường biển trên
vịnh Aden của Hải quân Trung Quốc, khi khủng hoảng xảy ra ở Libya, hải
quân đã vươn tới Địa Trung Hải thực hiện nhiệm vụ sơ tán công dân Trung
Quốc, tàu bệnh viện “Hoà bình Phương Chu” mang tình cảm hữu nghị đến nhân dân châu Phi.
Việc “Hoà giải trên biển” cần
một Hải quân Trung Quốc có thể thực hiện nhiều loại nhiệm vụ, tích cực
tham dự các sự vụ quốc tế. Bảo vệ lợi ích quốc gia cũng yêu cầu Trung
Quốc phải phát triển tàu sân bay có nhiều chức năng.
Bồi dưỡng văn hoá hải quân
Phát triển tàu sân bay phòng không hàm ý
rằng, chiến lược mà hải quân thực hiện là kiểu phòng ngự. Hoạch định
chiến lược với các chuỗi đảo là giới hạn cũng là vấn đề mà hải quân suy
nghĩ theo tư duy lục quân. Trong quốc gia chủ quyền trên đất liền truyền
thống, luôn luôn thiếu truyền thống hải quân. Tác chiến và xây dựng hải
quân lại có những khác biệt so với lục quân. Làm thế nào để tư duy theo
phương thức hải quân, qui hoạch phát triển trường kỳ hải quân, đó là
những vấn đề mấu chốt mà Hải quân Trung Quốc cần phải chú ý đồng thời
với phát triển tàu sân bay.
Khác biệt đầu tiên giữa lục quân-hải quân là văn hoá chỉ huy. So với sự “giáo điều”
tương đối của lục quân, văn hoá hải quân càng trở nên đa nguyên hoá.
Văn hoá lục quân nhấn mạnh kỷ luật từ trên xuống dưới, cấp dưới phải
phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Mệnh lệnh của cấp trên xuống cấp dưới rất
cụ thể, hơn nữa để tránh cấp dưới làm bừa, cấp trên sẽ khống chế lượng
thông tin mà cấp dưới được nắm. Còn hải quân lại không giống như vậy,
hải quân càng nhấn mạnh sự độc lập tự chủ của người chỉ huy. Người chỉ
huy tác chiến hải quân nắm được càng nhiều thông tin sẽ càng hiểu hơn
tình hình chiến trường, càng tốt cho chỉ huy tác chiến.
Cấp trên của họ thông thường chỉ cho một
mục tiêu, chỉ huy cấp dưới có quyền tự chủ thực hiện. Hạm đội tác chiến
giữa biển cả mênh mông, vấn đề đầu tiên cần giải quyết là phát hiện mục
tiêu, trong tác chiến biển, phát hiện địch trước, phía phát động tấn
công sẽ chiếm ưu thế lớn. Các tướng lĩnh hải quân nổi tiếng phương Tây
như Narson, Halsi... đều có tinh thần tích cực tiến thủ. Trong trận hải
chiến vịnh Leyte, sở dĩ Halsi - chỉ huy hạm đội truy kích tàu sân bay
Nhật bị Nimil - Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương gửi bức điện biểu lộ sự
tức giận cực độ, đó là vì Halsi cho rằng, Nimil đã can thiệp quá nhiều
vào việc chỉ huy tác chiến của ông ta.
Truyền thống chỉ huy độc lập tự chủ của
hải quân đã sinh ra văn hoá đa nguyên hải quân. Thế giới biến đổi khôn
lường, hiện tại không thể dự báo được tương lai, hải quân với văn hoá đa
nguyên mới có thể ứng phó với hiện thực càng tốt hơn.
Tác chiến trên bộ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi môi trường địa lý, người chỉ huy lục quân tốt cũng chính là “Nhà địa lý học”.
Ý thức lãnh thổ, biên giới dẫn dắt lục quân, mục tiêu tác chiến của lục
quân là giành một vùng đất nào đó. Còn hải quân lại không có ý thức
lãnh thổ, biển cả mênh mông không có biên giới, tới lui đều được. Đặc
điểm này thể hiện phương thức tư duy khác nhau của hải quân và lục quân
trong giải quyết một vấn đề nào đó.
Ví dụ, trước chiến tranh thế giới 2, sau
khi Mỹ dự định khai chiến với Nhật, Nhật Bản rất có khả năng sẽ tiến
xuống phía Nam chiếm giữ Philippines-lãnh thổ của Mỹ ở Thái Bình Dương.
Đối với việc này, Hải quân và Lục quân Mỹ đã lần lượt đề ra kế hoạch tác
chiến của mình.
Lục quân Mỹ cho rằng, để đề phòng Nhật
Bản chiếm đóng Philippines, phải tăng cường các công sự phòng ngự, tăng
điều động lục quân.
Theo quan điểm của Hải quân Mỹ,
Philippines vốn không thể giữ nổi, mục tiêu then chốt là Nhật Bản. Nếu
có thể đánh bại Nhật Bản, lãnh thổ Mỹ bị Nhật Bản tạm thời chiếm đóng tự
nhiên sẽ đòi lại được. Mà Nhật Bản là một đảo quốc, hầu như dựa vào mậu
dịch trên biển, nếu như áp dụng phong toả biển sẽ chặn được yết hầu
Nhật Bản, phía Nhật sẽ buộc phải quyết chiến bằng hạm đội với hạm đội
Mỹ. Vì thế vấn đề đánh bại Nhật Bản được chuyển thành vấn đề giành thắng
lợi trong quyết chiến hạm đội.
Hiện thực đã chứng thực kế hoạch của lục
quân đã không thể thực thi. Đầu tiên là, Mỹ khi đó không có lục quân
đầy đủ, hơn nữa lại không thể phán đoán địa điểm đổ bộ của phía quân
Nhật. Trên thực tế, chính phủ Mỹ cuối cùng cũng thừa nhận, kỳ thực
Philippines là không thể giữ được. Quá trình cuối Thế chiến 2 đã chứng
thực quan điểm của hải quân.
Đối với những quốc gia dựa trên tư duy
lục quân để giải quyết vấn đề, điều cần làm là bảo vệ tốt mảnh đất của
mình. Quân đến thì chặn, nước đến dùng đất ngăn. Tầm mắt chỉ giới hạn ở
địa bàn của mình, thiếu cái nhìn vấn đề một cách toàn cục. Trong thời
đại toàn cầu hoá hiện nay, sự kiện xảy ra ở một điểm trên địa cầu này sẽ
có thể ảnh hưởng và lan sang quốc gia ở nơi khác, làm thế nào dùng quan
điểm hải quân để định nghĩa “Phòng ngự” là một cuộc chuyển biến tư
tưởng cần phải tiến hành của những nước hướng ra biển vốn lấy tư tưởng
lục quân làm chủ đạo.
Cũng chính vì trên biển không có biên
giới, vì vậy việc lấy khái niệm ranh giới đất liền làm phạm vi phòng ngự
là không thoả đáng. Trong Thế chiến 2, nhằm đảm bảo an ninh cho mình,
Nhật Bản đã lấy chuỗi đảo làm biên giới để hoạch định vòng tròn phòng
ngự, và để mở rộng phạm vi phòng ngự, đã triển khai tác chiến hao người
tốn của với Mỹ trên đảo Goa thuộc quần đảo Solomon.
Sự thực chứng minh, vòng tròn phòng ngự
đã không thể ngăn chặn cuộc tấn công của Mỹ từ trên biển. Vũ khí hiện
đại có năng lực tập kích chính xác tầm xa, nếu một khu vực lấy giới
tuyến chuỗi đảo làm lá chắn phòng ngự, lấy đó để xây dựng hải quân là
không hợp lý. Hơn nữa lợi ích quốc gia đã vượt ra ngoài lá chắn phòng
ngự, điều hải quân cần làm là kéo dài lực lượng đến nơi có lợi ích quốc
gia, giải quyết vấn đề an ninh từ đầu ngọn nguồn.
Nguồn: Tin Tuc
0 Nhận xét